Thành phố hải Phòng
Hải Phòng - Thành phố trực thuộc trung ương
Biệt danh: Đất cảng
I. Thông tin sơ bộ về Thành Phố Hải Phòng
1. Ví trí địa lý
- Tọa độ: 20°51′59″B 106°40′57″Đ / 20,866389°B 106,6825°Đ
- Diện tích: 1.523,4 km²
- Dân số2011: 1.878.500 người
- Mật độ: 1.233 người/km²
- Dân tộc: Việt, Hoa, Hàn, Nhật
- Vị trí Hải Phòng trên bản đồ Việt Nam
2. Thông tin hành chính
- Quốc gia: Việt Nam
- Vùng Bắc Bộ
- Thành lập: 19 tháng 7 năm 1888
- Mã hành chính: VN-62
- Mã bưu chính: 18xxxx
- Mã điện thoại: 31
- Biển số xe: 15, 16
- Web: http://www.haiphong.gov.vn/
- Tọa độ: 20°51′59″B 106°40′57″Đ / 20,866389°B 106,6825°Đ
3. Giới thiệu chung về Thành Phố Hải Phòng
Hải Phòng, còn được gọi là Thành phố Hoa phượng đỏ, là một thành phố cảng lớn nhất phía Bắc (Cảng Hải Phòng) và công nghiệp ở miền Bắc Việt Nam và là trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ Vùng duyên hải Bắc Bộ. Hải Phòng là thành phố lớn thứ 3 của Việt Nam sau Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội. Hải Phòng còn là 1 trong 5 thành phố trực thuộc trung ương, đô thị loại 1 trung tâm cấp quốc gia, cùng với Đà Nẵng và Cần Thơ. Tính đến tháng 12/2011, dân số Hải Phòng là 1.907.705 người, trong đó dân cư thành thị chiếm 46,1% và dân cư nông thôn chiếm 53,9%, là thành phố đông dân thứ 3 ở Việt Nam.Đây là nơi có vị trí quan trọng về kinh tế, xã hội, công nghệ thông tin và an ninh, quốc phòng của vùng Bắc Bộ và cả nước, trên hai hành lang - một vành đai hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc. Hải Phòng là đầu mối giao thông đường biển phía Bắc. Với lợi thế cảng nước sâu nên vận tải biển rất phát triển, đồng thời là một trong những động lực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Là Trung tâm kinh tế - khoa học - kĩ thuật tổng hợp của Vùng duyên hải Bắc Bộ và là một trong 2 trung tâm phát triển của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Hải Phòng có nhiều khu công nghiệp, thương mại lớn và trung tâm dịch vụ, du lịch, giáo dục, y tế và thủy sản của vùng duyên hải Bắc Bộ Việt Nam. Hải Phòng là một cực tăng trưởng của tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc gồm Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh, nằm ngoài Quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Hải Phòng còn giữ vị trí tiền trạm của miền Bắc, nơi đặt trụ sở của bộ tư lệnh quân khu 3 và Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam.
II - Thông tin chi tiết về thành phố Hải Phòng
Mục lục
1 Địa lí tự
nhiên
1.1 Vị trí
1.2 Địa hình
1.3 Tài
nguyên
1.4 Khí hậu
2 Lịch sử
2.1 Thời kỳ
đầu - thế kỷ 16
2.2 Đầu thế
kỷ 16 - cuối thế kỷ 18
2.3 Đầu thế
kỷ 19
2.4 Từ 1945
đến nay
2.5 Tên gọi
"Hải Phòng"
3 Hành
chính
4 Dân cư
4.1 Đặc
trưng
4.2 Những
nhân vật tiêu biểu
5 Kiến trúc
và Quy hoạch đô thị
5.1 Một số
công trình kiến trúc tiêu biểu
6 Kinh tế
7 Giao thông
7.1 Hệ thống
cảng biển
7.2 Đường sắt
7.3 Đường
hàng không
7.4 Đường bộ
7.5 Giao
thông đô thị
8 Văn hóa
8.1 Văn học
8.2 Nghệ thuật
8.3 Lễ hội
8.4 Ẩm thực
8.5 Biểu tượng
9 Xã hội
9.1 Giáo dục
9.2 Tôn
giáo, tín ngưỡng
9.3 Hạ tầng
công nghệ thông tin
9.4 Thể dục,
thể thao
9.5 Y tế
10 Du lịch 10.1 Danh lam thắng cảnh
10.2 Khu nghỉ dưỡng
10.3 Khách sạn chuẩn quốc tế
11 Hợp tác quốc tế
12 Hình ảnh Hải Phòng
13 Xem thêm
14 Chú thích
15 Liên kết ngoài
Địa lí tự nhiên
Vị trí
Hải Phòng là một thành phố ven biển, phía Bắc giáp tỉnh Quảng
Ninh, phía Tây giáp tỉnh Hải Dương, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình, phía Đông
giáp Vịnh Bắc Bộ thuộc biển Đông và đảo Hải Nam - cách huyện đảo Bạch Long Vĩ
khoảng 70 km. Thành Phố cách thủ đô Hà Nội 102 km về phía Đông Đông Bắc.
Điểm cực Bắc của thành phố là xã Lại Xuân thuộc huyện Thủy Nguyên; cực Tây là xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo; cực Nam là xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Bảo; và cực Đông là đảo Bạch Long Vĩ
Địa hình
Điểm cực Bắc của thành phố là xã Lại Xuân thuộc huyện Thủy Nguyên; cực Tây là xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo; cực Nam là xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Bảo; và cực Đông là đảo Bạch Long Vĩ
Địa hình
Đồi núi, đồng bằng. Địa hình phía bắc của Hải Phòng là vùng trung du, có đồi xen
kẽ với đồng bằng và ngả thấp dần về phía nam ra biển. Khu đồi núi này có liên hệ
với hệ núi Quảng Ninh, di tích của nền móng uốn nếp cổ bên dưới, nơi trước đây
đã xảy ra quá trình sụt võng với cường độ nhỏ, gồm các loại cát kết, đá phiến
sét và đá vôi có tuổi khác nhau được phân bố thành từng dải liên tục theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam từ đất liền ra biển gồm hai dãy chính. Dãy chạy từ An Lão đến
Đồ Sơn đứt quãng, kéo dài khoảng 30 km có hướng Tây Bắc - Đông Nam gồm các núi:
Voi, Phù Liễn, Xuân Sơn, Xuân Áng, núi Đối, Đồ Sơn, Hòn Dáu. Dãy Kỳ Sơn - Tràng
Kênh và An Sơn - Núi Đèo, gồm hai nhánh: nhánh An Sơn - Núi Đèo cấu tạo chính
là đá cát kết có hướng tây bắc đông nam gồm các núi Phù Lưu, Thanh Lãng và Núi
Đèo; và nhánh Kỳ Sơn - Trang Kênh có hướng tây tây bắc - đông đông nam gồm nhiều
núi đá vôi.
Sông ngòi ở Hải Phòng khá nhiều, mật độ trung bình từ 0,6 - 0,8 km/1 km². Độ dốc khá nhỏ, chảy chủ yếu theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Đây là nơi tất cả hạ lưu của sông Thái Bình đổ ra biển, tạo ra một vùng hạ lưu màu mỡ, dồi dào nước ngọt phục vụ đời sống con người nơi đây. Các con sông chính ở Hải Phòng gồm
1. Sông Đá Bạc
- Bạch Đằng dài hơn 32 km, là nhánh của sông Kinh Môn đổ ra biển ở cửa Nam Triệu,
là ranh giới giữa Hải Phòng với Quảng Ninh.
2. Sông Cấm dài
trên 30 km là nhánh của sông Kinh Môn, chảy qua nội thành và đổ ra biển ở cửa Cấm.
3. Sông Lạch
Tray dài 45 km, là nhánh của sông Kinh Thầy, từ Kênh Đồng ra biển bằng cửa Lạch
Tray qua địa phận Kiến An, An Hải và cả nội thành.
4. Sông Văn Úc
dài 35 km chảy từ Quí Cao, đổ ra biển qua cửa sông Văn Úc làm thành ranh giới
giữa hai huyện An Lão và Tiên Lãng.
5. Sông Thái
Bình có một phần là ranh giới giữa Hải Phòng với Thái Bình.
6. Sông Bạch Đằng
7. Ngoài ra còn
có nhiều con sông khác khá nhỏ nằm ở khu vực nội thành quận Hồng Bàng.
Bờ biển và biển
Bờ biển và biển
Bờ biển Hải Phòng dài trên 125 km, thấp và khá bằng phẳng,
nước biển Đồ Sơn hơi đục nhưng sau khi cải tạo nước biển đã có phần sạch hơn,
cát mịn vàng, phong cảnh đẹp. Ngoài ra, Hải Phòng còn có đảo Cát Bà là khu dự
trữ sinh quyển thế giới có những bãi tắm đẹp, cát trắng, nước trong xanh cùng
các vịnh Lan Hạ.... đẹp và kì thú. Cát Bà cũng là đảo lớn nhất thuộc khu vực Vịnh
Hạ Long.
Tài nguyên
• Tài nguyên
đất đai: Hải Phòng có diện tích đất là 1507,57 km²,trong đó diện tích đất liền
là 1208,49 km². Tổng diện tích đất sử dụng là 152,2 nghìn ha trong đó đất ở chiếm
8,61%; đất dùng cho nông nghiệp chiếm 33,64%; đất lâm nghiệp chiếm 14,45%; còn
lại là đất chuyên dụng
Nằm ở ven biển nên chủ yếu là đất phèn, đất mặn, phù sa, đất
đồi feralit màu nâu vàng.
• Tài nguyên
rừng: Hải Phòng có khu rừng nguyên sinh trên đảo Cát Bà, là nơi dự trữ sinh quyển
Thế giới. Điều đặc biệt là khu rừng này nằm trên đá vôi, một trạng thái rừng rất
độc đáo.
• Tài nguyên
nước: Là nơi tất cả các nhánh của sông Thái Bình đổ ra biển nên Hải phòng có mạng
lưới sông ngòi khá dày đặc, mang lại nguồn lợi rất lớn về nước. Ngoài ra, tại
Tiên Lãng còn có mạch suối khoáng ngầm duy nhất ở đồng bằng sông Hồng, tạo ra
Khu du lịch suối khoáng nóng Tiên Lãng được nhiều người biết đến.
• Tài nguyên
biển: bờ biển Hải Phòng trải dài trên 125 km, mang lại nguồn lợi rất lớn về cảng,
góp phần phát triển thành cảng cửa ngõ quốc tế của cả miền Bắc và cả nước.
Ngành du lịch ở đây cũng rất phong phú với những bãi tắm sạch đẹp như Cát Bà, Đồ
Sơn cùng với phong cảnh hữu tình tạo nguồn lợi lớn cho du lịch, Cát Bà còn có
các rặng san hô, hệ thống hang động, biển có nhiều loại hải sản có giá trị kinh
tế.
• Tài nguyên
khoáng sản: Hải Phòng có tài nguyên đá vôi nhiều, và có mỏ đá vôi ở Thuỷ
Nguyên.
Khí hậu
Khí hậu
Thời tiết Hải phòng mang tính chất cận nhiệt đới ẩm ấm đặc
trưng của thời tiết miền Bắc Việt Nam: mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều, mùa đông khô
và lạnh, có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông tương đối rõ rệt. Nhiệt độ trung bình vào
mùa hè là khoảng 32,5 °C, mùa đông là 20,3 °C và nhiệt độ trung bình năm là
trên 23,9 °C. Lượng mưa trung bình năm là khoảng 1600 – 1800 mm. Độ ẩm trong
không khí trung bình 85 - 86%.
Tuy nhiên, Hải Phòng có một chút khác biệt so với Hà Nội về
mặt nhiệt độ và thời tiết. Do giáp biển, thành phố này ấm hơn 1 °C vào mùa đông
và mát hơn 1 đến 2 độ vào mùa hè.
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Trung bình tối cao °F 68 68 73 82 90 91 91 90 88 84 77 72 81
Trung bình tối thấp °F 55 59 64 70 75 79 79 79 75 72 64 59 69
Lượng mưa inch
Trung bình tối cao °C 20 20 23 28 32 33 33 32 31 29 25 22 27
Trung bình tối thấp °C 13 15 18 21 24 26 26 26 24 22 18 15 20,7
Lượng mưa mm 26 30 42 91 170 242 260 305 209 121 57 24 1.577
Lịch sử
Thời kỳ đầu - thế kỷ 16
Theo các kết quả khảo cổ học Cái Bèo (Cát Bà) (thuộc văn hóa
Hạ Long), Tràng Kênh (Thủy Nguyên), Núi Voi (An Lão) (thuộc văn hóa Đông
Sơn, đã xác định vùng đất này từ là nơi đã có cư dân Việt cổ sinh tụ, làm ăn.
Theo thư tịch cũ, toàn địa bàn xứ Đông (Hải Dương) xưa - bao gồm cả Hải Phòng
ngày nay - thời Hùng Vương thuộc bộ Dương Tuyền, là một trong 15 bộ của nhà nước
Văn Lang.
Dưới thời Bắc thuộc, những năm đầu Công nguyên, các vùng đất
thuộc địa bàn Hải Phòng như nội thành Hải Phòng ngày nay, huyện Thủy Nguyên,
huyện An Lão, huyện Tiên Lãng, huyện Vĩnh Bảo... theo truyền thuyết cũng như thần
phả làng xã còn lưu truyền, là nơi nữ tướng Lê Chân (?-43) về gây dựng căn cứ
và tuyển mộ nghĩa quân chống quân Đông Hán dưới ngọn cờ của Hai Bà Trưng. Nữ tướng
Lê Chân cũng là người có công đầu trong việc khai phá lập nên trang An Biên xưa
(còn được biết đến là trấn Hải Tần Phòng Thủ) - tiền thân của thành phố Hải
Phòng ngày nay.
Là nơi chiếm giữ vị trí chiến lược quan trọng, địa thế hiểm
trở, là cửa ngõ vào Đại La - Thăng Long, các vương triều Việt Nam đã từng có những
chiến tích lừng lẫy trong lịch sử chống lại sự xâm lược của láng giềng phương Bắc
với các chiến thắng trên sông Bạch Đằng như trận Bạch Đằng, 938 của Ngô Quyền,
trận Bạch Đằng, 981 của Lê Hoàn và trận Bạch Đằng, 1288 của Trần Hưng Đạo.
Thời Lê sơ, toàn bộ địa bàn Hải Phòng ngày nay thuộc trấn Hải
Dương (một trong Thăng Long Tứ Trấn) hay còn được gọi là xứ Đông, và là miền
duyên hải cực đông của xứ này.
Phố Paul Bert thời thuộc Pháp.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung lên ngôi, lập nên nhà Mạc với trung
tâm quyền lực đặt ở Thăng Long. Năm 1529, Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) nhường
ngôi cho con trai cả là Mạc Đăng Doanh để lui về quê hương Cổ Trai làm Thái Thượng
Hoàng. Ông đã cho xây dựng làng Cổ Trai từ một làng chài ven biển thuộc huyện
Nghi Dương, phủ Kinh Môn của trấn Hải Dương khi đó (ngày nay là xã Ngũ Đoan thuộc
huyện Kiến Thụy của thành phố Hải Phòng) trở thành kinh đô thứ hai của nhà Mạc
(Dương Kinh) tồn tại đồng thời với trung tâm Thăng Long. Mạc Đăng Dung lấy Nghi
Dương làm trung tâm của Dương Kinh, cắt phủ Thuận An ở trấn Kinh Bắc và các phủ
Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình ở trấn Sơn Nam cho lệ thuộc vào
Dương Kinh. Vốn xuất thân từ cư dân làm nghề chài lưới và buôn bán ven biển, Mạc
Đăng Dung và nhà Mạc thuộc số ít các triều đại phong kiến Việt Nam coi trọng
phát triển công thương nghiệp, đặc biệt là nền kinh tế sản xuất hàng hóa (điển
hình là đồ gốm sứ) thay vì tập trung chủ yếu vào kinh tế tiểu nông truyền thống.
Dương Kinh được xây dựng như một kinh đô thu nhỏ, với vai
trò là kinh đô thứ hai của nhà Mạc sau trung tâm quyền lực ở Thăng Long. Theo
những mô tả của các bộ chính sử (Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử),
văn bia cổ còn lưu lại và hiện trường được phát lộ cùng khối lượng hiện vật
phong phú thu được qua các đợt khai quật khảo cổ thì Dương Kinh bao gồm quần thể
kiến trúc cung điện, lầu các với quy mô trải rộng như Các Dương Tự, điện Tường
Quang, Phúc Huy, phủ Hưng Quốc, đồn binh, kho lương và cả một trường Quốc học
song song với Quốc Tử Giám tại Thăng Long; ngoài ra còn có các đình, chùa được
xây mới hoặc tu bổ, cùng với hệ thống đê bao ngăn nước mặn và chống lũ lụt.
Ngoài ra, nhà Mạc còn cho xây dựng một số thương cảng trên bến dưới thuyền làm
nơi giao thương như phố Lỗ Minh Thị, An Quý, Do Nha. Khác với các cung điện ở
Đình Bảng (Bắc Ninh) dưới thời Lý, Thiên Trường (Nam Định) dưới thời Trần, hay
Lam Kinh (Thanh Hóa) thời Lê sơ vốn chủ yếu là nơi nghỉ ngơi, thờ tự của các
vua chúa và hoàng tộc, Dương Kinh thời Mạc còn có vai trò như một trung tâm
kinh tế, giao thương quan trọng nằm sát biển cùng với Thăng Long, Phố Hiến nằm
sâu trong đất liền. Ngày nay, các nhà sử học Việt Nam có chung nhận định Dương
Kinh thời Mạc không chỉ là kinh đô hướng biển mà còn là đô thị ven biển đầu
tiên trong lịch sử Việt Nam.
Nhà Mạc thất thủ ở Thăng Long (1592), phải rút lên đất Cao Bằng,
tướng nhà Lê-Trịnh là Trịnh Tùng đã đem quân đốt phá, san phẳng các công trình
kiến trúc được xây dựng thời Mạc trên địa bàn Dương Kinh. Trải qua hơn 200 năm
sau với các triều đại từ Lê Trung Hưng (Lê-Trịnh) đến nhà Tây Sơn và cuối cùng
là nhà Nguyễn, địa bàn Hải Phòng bấy giờ nằm trong địa phận quản lý của trấn Hải
Dương rồi tỉnh Hải Dương (1831) về sau.
Sau khi Dương Kinh triều Mạc bị phá hủy cuối thế kỷ XVI, tiếp
đến giai đoạn Trịnh - Nguyễn phân tranh kéo dài suốt 2 thế kỷ XVII - XVIII đã
hình thành nên sự phân chia Đàng Trong - Đàng Ngoài. Trong thời kỳ này, miền
duyên hải thuộc địa bàn Hải Phòng ngày nay vẫn giữ một vai trò quan trọng trong
quan hệ thương mại giữa xứ Đàng ngoài với các thuyền buôn phương Tây (đặc biệt
là người Hà Lan và người Anh) bên cạnh sự hình thành và phát triển của Phố Hiến.
Trong những thư tịch của các nhà hàng hải, thương nhân châu
Âu có liên quan đến xứ Đàng ngoài trong thế kỷ XVII - XVIII thì ngoài 2 đô thị
chính lúc đó là Kẻ Chợ (Thăng Long) và phố Hiến còn nhắc nhiều đến 2 địa danh
khác là Batshaw (còn được viết là Batsha) và Domea nằm trong khoảng vĩ độ
20°45' và 20°50' bắc thuộc vùng Đồ Sơn - Tiên Lãng ngày nay.
Domea, một cảng cửa khẩu quốc tế quan trọng của xứ Đàng
ngoài, đóng vai trò như tiền cảng của Phố Hiến, nơi hiếm hoi trên toàn lãnh
thổ Việt Nam lúc đó, người nước ngoài, trong đó chủ yếu là người Hà Lan được
thật sự tự do sinh sống và buôn bán. Trong thời kỳ này nhiều loại rau có nguồn
gốc từ xứ lạnh như bắp cải, su hào, súp lơ… đã được các thuyền buôn Hà Lan mang
tới và phổ biến cho dân địa phương cách gieo trồng. Di chỉ thương cảng Đò Mè
(Domea) ngày nay được hầu hết các nhà nghiên cứu lịch sử và khảo cổ xác định
thuộc địa bàn làng An Dụ, xã Khởi Nghĩa, phía bắc huyện Tiên Lãng ngày nay.
Nhà hàng hải người Anh ở thế kỷ XVII là William Dampier có
viết về Batsha (Batshaw) và Domea trong cuốn sách Du hành và Khám phá năm 1688.
Theo Dampier viết, đi từ biển vào đầu tiên là qua Batsha, sau đến Domea, rồi đến
Hean (phố Hiến) và cuối cùng là tới Cachao (Kẻ Chợ hay Thăng Long). Theo như mô
tả của William Dampier, cư dân sống ở làng chài mang tên Batsha (thuộc khu vực
bán đảo Đồ Sơn ngày nay) không chỉ làm nghề đánh cá mà còn làm hoa tiêu dẫn đường
cho những thuyền buôn phương Tây vào vùng cửa sông Thái Bình thuộc khu vực các
huyện Tiên Lãng và Vĩnh Bảo (Hải Phòng). Đây là khu vực chủ yếu ở Đàng Ngoài,
nơi mà các thương thuyền đến từ phương Tây như Hà Lan hay Vương quốc Anh được tự
do ra vào, buôn bán trao đổi hàng hoá và lưu trú lâu dài vào thời đó.
Nhưng không phải chỉ những nhà hàng hải hay thương nhân châu
Âu mới chú ý đến vai trò của Batsha (Batshaw) trên con đường thương mại của xứ
Đàng Ngoài mà đến cả những tên tuổi vĩ đại trong lịch sử khoa học như Isaac
Newton và Pierre-Simon Laplace cũng nhắc đến địa danh Batsha trong các tác phẩm
của họ bởi hiện tượng thủy triều đặc biệt ở vùng biển Đồ Sơn.
Trong tác phẩm khoa học kinh điển Principia Mathematica (tên
gọi tắt là Các nguyên lý) của nhà vật lý kiêm toán học vĩ đại người Anh Isaac
Newton xuất bản bằng tiếng Latin lần đầu vào năm 1687 có nhắc đến địa danh cảng
Batsham nằm trong vĩ độ 20°50' bắc, thuộc vương quốc Tunquini (xứ Đàng Ngoài),
nơi mà thủy triều lên xuống chỉ một lần trong ngày. Newton cũng cho biết ông
có được thông tin đó từ những nhà hàng hải, những người có thể đã từng du hành
tới Đàng Ngoài trong thế kỷ XVII.
Cuối thế kỷ XVIII, một nhà nhà vật lý kiêm toán học vĩ đại
khác là Pierre-Simon Laplace (người được giới khoa học mệnh danh là Newton của
nước Pháp) đã nhắc lại hiện tượng thủy triều ở cảng Batsha của vương quốc
Tunking (Tunquin) trong tác phẩm nổi tiếng của ông xuất bản bằng tiếng Pháp năm
1796 có tựa đề Exposition du système du monde.
Hơn 90 năm sau những ghi chép của William Dampier, Abbé
Richard ở thế kỷ XVIII trong cuốn sách Lịch sử Đàng Ngoài xuất bản ở Paris
(Pháp) năm 1778 với nhiều chi tiết mô tả về Domea: “Cách cửa sông 5 hoặc 6 hải
lý có một thành phố khác gọi là Domea, nhỏ hơn Phố Hiến nhưng lại rất nổi tiếng
với người nước ngoài và nó ở trong một cái vụng được tạo bởi dòng sông đối diện
với nó. Họ thả neo và chỉ ở nơi này họ mới được phép đặt cơ sở để tiến hành
buôn bán…”.
Bản đồ châu Á của Johann Matthias Hase, xuất bản ở Nuremberg
(Đức) năm 1744 cũng đánh dấu Domea như là một địa danh quan trọng ở khu vực xứ
Đàng Ngoài.
Do những biến động của lịch sử Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ
XVIII cùng chính sách bế quan tỏa cảng của các triều đại phong kiến về sau đã
làm cho hoạt động ngoại thương gần như đình trệ, kéo theo sự suy tàn của nhiều
làng nghề sản xuất cùng những thương cảng quan trọng một thời, trong đó có
Domea.
Đầu thế kỷ 19
Sau khi nhà Nguyễn chính thức được thành lập năm 1802 và kiểm
soát gần như toàn bộ lãnh thổ Việt Nam như ngày nay nhưng ảnh hưởng về chính trị
và kinh tế của xứ Đàng Ngoài bao gồm phần lớn miền Bắc Việt Nam đã không còn
như thời trước. Hệ quả của chính sách bế quan tỏa cảng của triều đình Huế cùng
sự buông lỏng cai trị đối với phần Đông Bắc đất nước đã khiến nhiều vùng đất
thuộc địa bàn Hải Phòng khi đó thường xuyên ở vào tình trạng bất ổn chính trị,
đời sống nhân dân bấp bênh do thiên tai và nạn hải tặc từ miền nam Trung Hoa.
Năm 1871 - 1873, Bùi Viện, được sự tiến cử với vua Tự Đức của
Doanh điền sứ Doãn Khuê, đã thực hiện việc xây dựng một bến cảng bên cửa sông Cấm
mang tên Ninh Hải và một căn cứ phòng ngự bờ biển ở liền kế bên, gọi là nha Hải
phòng sứ. Khi Pháp đánh chiến Bắc Kỳ lần thứ nhất năm 1873-1874, nhà Nguyễn
phải ký Hòa ước Giáp Tuất, trong đó quy định nhà Nguyễn phải mở cửa thông
thương các cảng Ninh Hải (Hải Phòng) thuộc tỉnh Hải Dương và Thị Nại tỉnh Bình
Định, để đổi lấy việc Pháp rút quân khỏi Bắc Kỳ. Sau đó tại cảng Ninh Hải này,
nhà Nguyễn và Pháp lập nên một cơ quan thuế vụ chung, quản lý việc thương mại ở
vùng cảng này gọi là Hải Dương thương chính quan phòng. Từ đây tên gọi Hải
Phòng chính thức được nhắc đến về mặt địa lý.
Bản đồ Hải Phòng năm 1920.
Năm 1887, thực dân Pháp tách một số huyện ven biển của tỉnh
Hải Dương nằm lân cận cảng Ninh Hải ra để thành lập tỉnh Hải Phòng. Ngày 19
tháng 7 năm 1888, Tổng thống Pháp Sadi Carnot kí sắc lệnh thành lập thành phố Hải
Phòng - thành phố Hải Phòng chính thức có tên trên bản đồ Liên bang Đông Dương.
Theo sắc lệnh thành phố Hải Phòng được tách ra từ tỉnh Hải Phòng, phần còn lại
của tỉnh Hải Phòng lập thành tỉnh Kiến An. Về mặt hành chính, thành phố Hải
Phòng là một nhượng địa nên thời kỳ này thuộc quyền trực trị của Pháp thay vì
dưới thể chế bảo hộ của xứ Bắc Kì. Vào cuối thời Pháp thuộc khoảng thập niên
1940, dân số Hải Phòng tính được 73.000 người, chiếm địa vị thành phố lớn thứ 4
sau Sài Gòn, Chợ Lớn, và Hà Nội.
Dưới thời Pháp thuộc, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Hải
Phòng đứng ngang hàng với Hà Nội, Sài Gòn, là thành phố cấp I. Là hải cảng lớn
nhất của xứ Bắc Kỳ, đầu mối giao thông quan trọng trên đường hàng hải quốc tế
và là một trung tâm công nghiệp, Hải Phòng đã trở thành một trong những cái nôi
đánh dấu sự ra đời của giai cấp công nhân và phong trào công nhân Việt Nam đấu
tranh chống lại sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp. Hải Phòng là một trong những
trung tâm của phong trào cách mạng cả nước trong các cao trào cách mạng
1930-1931, 1936-1939 và 1939-1945.
Từ 1945 đến nay
Từ ngày 15-8-1945 đến ngày 25-8-1945, chính quyền tay sai dưới
chế độ thực dân rồi phát xít ở Hải Phòng, Kiến An (tỉnh) đã bị lực lượng cách mạng
lật đổ, chính quyền cách mạng được thiết lập. Ngày 20-11-1946, cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp bùng nổ ở Hải Phòng.
Ngày 13-5-1955, Hải Phòng được giải phóng hoàn toàn, chính
quyền nhân dân tiếp quản thành phố từ tay quân đội Pháp. Kể từ đó, ngày 13
tháng 5 hằng năm được chọn làm ngày giải phóng thành phố.
Ngày 5-7-1961, khu vực nội thành được chia thành 3 khu phố mới
là Hồng Bàng, Ngô Quyền và Lê Chân.
Ngày 27-10-1962, Thành phố Hải Phòng như ngày nay được Quốc
hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra quyết định thành lập trên cơ sở hợp nhất
thành phố Hải Phòng cũ và tỉnh Kiến An.
Ngày 7-4-1966, hợp nhất 2 huyện An Dương và Hải An thành huyện
An Hải, chuyển xã Bàng La thuộc huyện Kiến Thụy vào thị xã Đồ Sơn.
Năm 1974, hợp nhất 2 huyện An Lão và Kiến Thụy thành huyện
An Thụy.
Trong giai đoạn 1955-1975, với vai trò là thành phố Cảng lớn
nhất miền Bắc, tiếp nhận phần lớn hàng viện trợ quốc tế và là căn cứ xuất phát
của Đường Hồ Chí Minh trên biển. Vì vậy trong các cuộc leo thang đánh phá miền
Bắc, máy bay của không quân Mỹ đã tập trung bắn phá ác liệt Hải Phòng, tiến
hành phong tỏa Cảng, nhằm hủy diệt đầu mối giao thông vận tải, ngăn chặn chi viện
của miền Bắc cho miền Nam và của quốc tế với Việt Nam. Nhiều nhà máy, công
trình xây dựng, bến cảng, đường giao thông, cầu phà và khu dân cư bị phá hủy
hoàn toàn.
Kể từ trận đầu bắn rơi máy bay Mỹ trên đảo Bạch Long Vĩ
(26-3-1965) đến chiến thắng oanh liệt trong chiến dịch 12 ngày đêm cuối năm
1972, quân và dân Hải Phòng đã chiến đấu trên 4000 trận, bắn rơi 317 máy bay Mỹ
(trong đó có 5 pháo đài bay B52), 28 lần bắn cháy tàu chiến của hải quân Mỹ. Do
những thành tích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thành phố đã được
nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng
nhất, Huân chương Chiến công hạng nhất và Huân chương Sao vàng (1985).
Sau khi thống nhất đất nước (1975), Hải Phòng là một trong 3
thành phố trực thuộc trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(cùng với Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh).
Ngày 11-3-1977, sáp nhập huyện Cát Bà vào huyện Cát Hải.
Ngày 5-3-1980, sáp nhập thị xã Đồ Sơn và 21 xã của huyện An
Thụy thành huyện Đồ Sơn; sáp nhập thị xã Kiến An và 16 xã còn lại của huyện An
Thụy thành huyện Kiến An.
Ngày 6-6-1988, chia huyện Đồ Sơn thành thị xã Đồ Sơn và huyện
Kiến Thụy; chia huyện Kiến An thành thị xã Kiến An và huyện An Lão.
Ngày 9-12-1992, thành lập huyện đảo Bạch Long Vĩ.
Ngày 29-8-1994, chuyển thị xã Kiến An thành quận Kiến An.
Ngày 20-12-2002, chia huyện An Hải thành quận Hải An và huyện
An Dương.
Ngày 12-9-2007, thành lập quận Dương Kinh và chuyển thị xã Đồ
Sơn thành quận Đồ Sơn.
Tên gọi "Hải Phòng”
Như vậy, nguồn gốc địa danh Hải Phòng có thể là từ:
• Tên gọi rút
ngắn trong cụm từ Hải tần phòng thủ, của nữ tướng Lê Chân đầu thế kỉ 1.
• Tên gọi rút
ngắn từ tên gọi của một cơ quan đời Tự Đức trên đất Hải Dương: Hải Dương thương
chính quan phòng
• Tên Hải
Phòng có thể bắt nguồn từ ti sở nha Hải phòng sứ hay đồn Hải Phòng do Bùi Viện
lập từ năm 1871 đời Tự Đức, với căn cứ như sau: "Bến cảng trên sông Cấm
trước khi gọi là Hải Phòng đã được gọi là Ninh Hải, địa danh Ninh Hải được dùng
chính thức trong giấy tờ, sử sách của ta từ trước khi có tên Hải Phòng cho đến
khi bị tên Hải Phòng loại hẳn".[11]
Trong quá khứ bom đạn, người Hải Phòng gắn bó với những cái
tên nhà "máy Tơ", "máy Chai", "máy Bát",
"máy Chỉ",..., rồi cơ khí như nhà máy cơ khí "Ca-rông",
"Com-ben", "Sắc-rích",..., các rạp chiếu phim "Khánh Nạp",
"Công Nhân", các con phố, đường "", những tên ngõ "Đất
Đỏ" (nay là ngõ Hoàng Quý), ngõ "Lửa Hồng", ngõ
"Đá"... Có 2 câu thơ:
“ Hải Phòng
có bến Sáu kho
Có sông Tam Bạc có lò Xi măng”
Hành chính
Hải Phòng là 1 trong 3 thành phố trực thuộc trung ương đầu tiên
của Việt Nam ngay sau 1975 cùng với Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Chủ tịch Hội
đồng Nhân dân thành phố Hải Phòng hiện nay là ông Nguyễn Văn Thành - Ủy viên
Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy.
Thành phố Hải Phòng gồm 7 quận nội thành, 6 huyện ngoại thành
và 2 huyện đảo ; (228 đơn vị cấp xã 70 phường, 10 thị trấn và 148 xã):
Đơn vị hành chính
Số phường (xã, thị trấn) Diện tích (km²) (2009) Dân số (người) Mật độ (người/km²)
A- Toàn Thành phố: 70
phường, 10 thị trấn, 148 xã 1.505,74 1.837.173 1.220,11
1. Quận Dương Kinh: 6 phường 45,85 48.700 1.062,16
2. Quận Đồ Sơn: 7 phường 42,37 44.514 1.050,6
3- Quận Hải An: 8 phường 88,39 103.267 1.168,31
4- Quận Kiến An: 10 phường 29,6 97.403 3.290,64
5- Quận Hồng Bàng: 11 phường 14,27 101.625 7.121,58
6- Quận Ngô Quyền: 13 phường 10,97 164.612 15.005,65
7- Quận Lê Chân: 15 phường 12,31 209.618 17.028,27
8- Huyện An Dương: 1 thị trấn + 15 xã 98,29 160.751 1.635,47
9- Huyện An Lão: 2 thị trấn + 15 xã 113,99 132.316 1.160,77
10- Huyện đảo Bạch Long Vĩ: - 4,5 902 200,4
11- Huyện đảo Cát Hải: 2 thị trấn + 10 xã 323,1 29.676 91,84
12- Huyện Kiến Thụy: 1thị trấn + 17 xã 107,5 126.324 1.175,1
13- Huyện Tiên Lãng: 1 thị trấn + 22 xã 191,2 141.288 738,95
14- Huyện Vĩnh Bảo: 1 thị trấn + 29 xã 180,5 173.083 958,91
15- Huyện Thủy Nguyên: 2 thị trấn + 35 xã 242,8 303.094 1.248,32
Nguồn: Số liệu về dân số lấy từ Kết quả toàn bộ Tổng điểu tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2009 tại website của Tổng cục Thống kê.
Dự kiến đến năm 2025, Hải Phòng sẽ tiến hành chia tách các
huyện cũ để thành lập thêm 5 quận mới: Bến Rừng, Bắc Sông Cấm, Tây Bắc, An
Dương và Tràng Cát - Cát Hải. Nâng tổng số quận lên thành 12 quận, mở rộng vùng
trung tâm.
Phụ nữ Hải Phòng năm 1904
Năm 1897 tức vài năm sau khi thành lập, Hải Phòng có dân số
18.480. Người Hải Phòng mang những dấu ấn đậm nét của người dân miền biển
mà vẫn thường được gọi là ăn sóng nói gió.
Những cư dân vùng ven biển Hải Phòng (trải dài từ huyện Thủy
Nguyên cho tới huyện Vĩnh Bảo ngày nay) chính là những người đi tiên phong
trong công cuộc khai phá tạo dựng nên mảnh đất có tên là Hải Tần Phòng Thủ những
năm đầu Công nguyên khi nữ tướng anh hùng Lê Chân về đây gây dựng căn cứ chống
quân Đông Hán. Nhưng lịch sử hình thành và phát triển đô thị Cảng biển Hải
Phòng như ngày hôm nay chỉ thực sự được quan tâm đúng mức vào giai đoạn nửa sau
thế kỷ 19 khi thực dân Pháp đẩy mạnh quá trình khai thác thuộc địa ở Đông
Dương. Điều đó góp phần tạo nên sự đa dạng và phức tạp trong thành phần cư dân
nơi đây, với những nét khác biệt so với nhiều địa phương khác tại Việt Nam cùng
thời điểm.
Từ những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 dưới thời Pháp thuộc,
Hải Phòng cùng với Sài Gòn có vai trò như những cửa ngõ kinh tế của Liên bang
Đông Dương trong giao thương với quốc tế ở vùng Viễn Đông. Vì thế ở thời điểm
đó tại Hải Phòng tập trung nhiều thành phần dân di cư tới sinh sống lập nghiệp.
Cộng đồng người Việt lúc đó ngoài cư dân địa phương còn đón nhận nhiều dân di
cư tới từ nhiều tỉnh thành của miền Bắc như Hà Nội - Hà Tây, Hải Dương, Nam Định,
Thái Bình, Hưng Yên... Nhiều người trong số đó dù không sinh ra tại Hải Phòng
nhưng đã gắn bó với thành phố Cảng trong những năm tháng đáng nhớ của sự nghiệp.
Điển hình là những nhà hoạt động cách mạng và sau là những người giữ trọng
trách của Đảng như Nguyễn Đức Cảnh, Tô Hiệu, Nguyễn Văn Linh[13], Lê Quang Đạo,
nhạc sĩ Đỗ Nhuận, nhà thơ Thế Lữ, nhà văn Nguyên Hồng, cùng những doanh nhân
giàu lòng yêu nước như Nguyễn Sơn Hà, Bạch Thái Bưởi... Trong những năm tháng
kháng chiến chống Mỹ ác liệt, Hải Phòng là nơi tiếp nhận một số lượng lớn những
cán bộ cách mạng từ miền Trung và miền Nam tập kết ra Bắc. Nhiều người đã lập
gia đình tại Hải Phòng để rồi sau ngày thống nhất đất nước, đã đưa gia đình trở
lại quê hương miền Nam. Một số người nổi tiếng trong các lĩnh vực kinh doanh,
giải trí tại Việt Nam hiện nay như Đặng Thành Tâm, Ngọc Sơn (ca sĩ), Duy Mạnh đều
có cha là người miền Nam tập kết còn mẹ là người Hải Phòng. Ngoài ra, trong
giai đoạn này cũng có nhiều con em các gia đình cách mạng sinh ra tại miền Nam
sau đó được gửi ra miền Bắc, sống và học tập trong những năm niên thiếu tại Trường
Học sinh miền Nam trên địa bàn Hải Phòng. NSND Trà Giang có thể là người nổi tiếng
nhất trong số này.
Trong số những cộng đồng người nước ngoài cư trú lâu dài tại
Hải Phòng dưới thời Pháp thuộc, cộng đồng người Pháp có ảnh hưởng lớn nhất về mọi
mặt. Đó có thể là những viên chức của chính quyền thuộc địa, sĩ quan quân đội,
thương nhân, nhà công nghiệp hay dân di cư thông thường. Nhiều người trong số
này đã kết hôn với người Việt bản xứ. Điển hình là trường hợp của nhà dân tộc học
và nhân chủng học nổi tiếng Georges Condominas sinh năm 1921 tại Hải Phòng, có
cha là người Pháp còn mẹ là người lai ba dòng máu Việt - Hoa - Bồ Đào Nha.
Ngoài ra, có Michel Henry (1922 - 2002), nhà triết học người Pháp, sinh năm
1922 tại Hải Phòng, trở về Pháp năm lên 7 tuổi. Nhưng gần như tất cả người Pháp
đã rời khỏi thành phố sau khi Hải Phòng được giải phóng ngày 13-5-1955. Họ chủ
yếu đi bằng tàu biển vào Sài Gòn hoặc trở về Pháp. Sau trường hợp của Georges
Condominas và Michel Henry, còn có nghệ sĩ tạo hình bong bóng nổi tiếng Fan
Yang (hiện giữ 17 kỷ lục Guinness thế giới), sinh năm 1962 tại Việt Nam, có cha
là người Pháp gốc Hungary còn mẹ là người Hải Phòng.
Cộng đồng người Hoa ở Hải Phòng thời điểm đó vào loại đông
nhất ở miền Bắc (Bắc Kỳ) và trở thành cộng đồng người nước ngoài có ảnh hưởng lớn
tại Hải Phòng về mặt thương mại (tòa nhà Bảo tàng Hải Phòng hiện nay được xây dựng
năm 1919, nằm trên đường Điện Biên Phủ, trước kia vốn là trụ sở của Ngân hàng
Pháp - Hoa thời thuộc địa). Nhiều người Hoa cũng kết hôn với người Việt và định
cư qua nhiều thế hệ tại vùng đất cửa biển. Trải qua nhiều biến cố lịch sử, ngày
nay họ vẫn đóng vai trò là một bộ phận cư dân của thành phố.
Sự kết hợp giữa các yếu tố Á - Âu, Việt - Pháp, Việt - Hoa,
Pháp - Hoa đã để lại những dấu ấn còn đậm nét trong những di sản về văn hóa,
ngôn ngữ, kiến trúc và ẩm thực tại Hải Phòng ngày nay. Đây cũng là một trong những
lý do có ảnh hưởng đến tính cách đặc trưng của người Hải Phòng: cởi mở, phóng
khoáng, mạnh mẽ, trực tính, nhạy bén trong kinh doanh buôn bán và dễ tiếp nhận
những cái mới. Nhiều người con đất Cảng đi lập nghiệp xa quê lâu năm nhưng vẫn
giữ được phần nhiều những nét tính cách rất Hải Phòng đó.
Những nhân vật tiêu biểu
Nhiều người có đóng góp trong các lĩnh vực văn hóa, khoa học,
nghệ thuật, kinh tế, chính trị, giải trí, thể thao... ở Việt Nam cũng như trên
thế giới là những người sinh ra tại Hải Phòng hoặc có nguyên quán ở Hải Phòng.
Cũng có nhiều người dù không sinh ra tại Hải Phòng nhưng mảnh đất cửa biển là
nơi đã nuôi dưỡng tài năng, lưu dấu những năm tháng đáng nhớ trong cuộc đời và
sự nghiệp của họ. Tiêu biểu trong số đó có nữ tướng Lê Chân, các nhà hoạt động
cách mạng Tô Hiệu, Nguyễn Đức Cảnh; nhà văn Nguyên Hồng, nhà thơ Thế Lữ, nhà
thơ Thanh Tùng, nhạc sĩ Đỗ Nhuận, NSND Trà Giang; các doanh nhân Nguyễn Sơn Hà,
Bạch Thái Bưởi. Một số trường hợp đặc biệt như nhà nhân chủng học Georges
Condominas, nhà triết học Michel Henry là những người gốc Pháp nhưng sinh ra và
sống thời thơ ấu tại Hải Phòng. Ngoài ra, còn trường hợp của nghệ sĩ tạo hình
bong bóng Fan Yang có mẹ là người Hải Phòng. Đỗ Mười, Hoàng Hữu Nhân, Đặng Văn
Minh và Đoàn Duy Thành cũng từng là Bí thư, Chủ tịch của Hải Phòng trong một thời
gian dài.
Kiến trúc và Quy hoạch đô thị
Nhà hát thành phố Hải Phòng
Kiến trúc của thành phố Hải Phòng là sự pha trộn hài hòa giữa
2 nền văn hóa Á - Âu. Sự pha trộn này tạo ra cho thành phố một nét đẹp đô thị
riêng biệt, vừa thanh lịch, vừa mạnh mẽ. Đến thời điểm 2011, Hải Phòng còn giữ
được nhiều khu phố với kiến trúc khá nguyên vẹn từ thời Pháp thuộc. Như ở quận Hồng
Bàng, nhiều phố với những biệt thự do người Pháp xây dựng vẫn được giữ nguyên về
tổng thể, tập trung các cơ quan hành chính sự nhiệp. Ở quận Hồng Bàng có khu phố
Tàu gần Chợ Sắt (phố Khách nay là phố Phan Bội Châu và phố Trung Quốc nay là phố
Lý Thường Kiệt) có những nét giống như khu vực Chợ Lớn ở Thành phố Hồ Chí Minh,
đặc biệt là phố Tam Bạc nằm ngay bên con sông Tam Bạc thơ mộng, trên bến dưới
thuyền, từng là đề tài cho nhiều họa sĩ.
Một nét độc đáo về đô thị Hải Phòng còn là những dòng sông.
Những con sông chảy trong lòng thành phố hiện đại cùng với những cây cầu lớn nhỏ
bắc qua. Hiện nay thành phố có khoảng 20 cây cầu lớn nhỏ, lớn nhất là cầu Bính
- một trong những cây cầu dây văng lớn nhất Đông Nam Á.
Thành phố đang được quy hoạch theo 5 hướng giống như 5 cánh
phượng ra biển, đồng thời bám theo những dòng sông lịch sử như sông Cấm, Tam Bạc,
Lạch Tray,... để xứng tầm là một đô thị đặc biệt và thành phố dịch vụ cảng văn
minh, hiện đại trong tương lai rất gần. Theo quy hoạch, đến năm 2015 Hải
Phòng sẽ cơ bản trở thành thành phố công nghiệp cùng với Quảng Ninh, đi trước cả
nước 5 năm và dự kiến vào trước năm 2020, muộn nhất là 2025 sẽ là thành phố thứ
3 xếp loại đô thị đặc biệt và tầm nhìn từ năm 2025 đến năm 2050 sẽ trở thành
thành phố quốc tế.
Tượng đài nữ tướng Lê Chân
• Nhà hát
thành phố Hải Phòng (quen gọi là "Nhà hát Lớn" của thành phố):
Công trình kiến trúc lâu đời tọa lạc ở trung tâm thành phố. Cùng với Nhà hát lớn
Hà Nội và Nhà hát thành phố Hồ Chí Minh tại TP Hồ Chí Minh, Nhà hát thành phố Hải
Phòng là một trong số ít những nhà hát được Pháp xây dựng tại Đông Dương. Trên khu vực quảng trường Nhà hát lớn của Thành phố còn có địa
danh Quán Hoa, gồm 5 quán bán hoa được xây dựng từ thời Pháp thuộc với đường
nét kiến trúc đình làng cổ Việt nam. Khi xây dựng quán hoa, các bộ phận được
làm sẵn từ nơi khác rồi mang đến lắp ráp chỉ trong một đêm.
• Bảo tàng Hải
Phòng: Trưng bày các hiện vật và thông tin về lịch sử thành phố từ thời tiền sử
tới nay. Tòa nhà Bảo tàng Hải Phòng vốn là trụ sở của Ngân hàng Pháp-Hoa thời
Pháp thuộc, được xây dựng theo kiến trúc gô-tích từ cuối thập niên 1910.
• Ngoài ra
còn có các công trình như Bưu điện thành phố Hải Phòng, Trụ sở Ngân hàng nhà nước,
Trung tâm triển lãm VHNT Hải Phòng, Trung tâm hội nghị thành phố Hải Phòng, Tượng
đài nữ tướng Lê Chân, Khu đền thờ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm...
Catbi Plaza.
Hải Phòng là một "trung tâm kinh tế quan trọng" của
miền bắc nói riêng và của cả Việt Nam nói chung. Dưới thời Pháp thuộc, Hải
Phòng là thành phố cấp 1, ngang hàng với Sài Gòn và Hà Nội. Những năm cuối thế
kỷ 19, người Pháp đã có những đề xuất xây dựng Hải Phòng thành "thủ đô
kinh tế" của Đông Dương.
Ngày nay, Hải Phòng là một trong những trung tâm kinh tế
quan trọng nhất của Việt Nam, từ năm 2005 đến nay luôn đứng trong top 5 các tỉnh
thành phố đóng góp ngân sách nhiều nhất cả nước, cụ thể là luôn đứng ở vị trí
thứ 4 sau Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu, và Hà Nội. Năm 2009, thu
ngân sách nhà nước của địa phương đạt 34.000 tỉ đồng. Năm 2011, thu ngân sách
trên địa bàn thành phố đạt 47.725 tỷ đồng, tăng 19% so với năm 2010 . Dự
kiến năm 2012, Thành phố tổng thu ngân sách 56 470 tỷ đồng. Trong bảng xếp hạng
về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, thành phố Hải
Phòng xếp ở vị trí thứ 45/63 tỉnh thành.
Hải Phòng là trung tâm phát luồng hàng xuất nhập khẩu lớn nhất
miền Bắc. Đến nay, Hải Phòng đã có quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá với trên 40
nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Trung tâm Hội chợ triển lãm quốc tế Hải
Phòng là trung tâm hội chợ lớn nhất của Việt Nam hiện nay. Hải Phòng đang phấn
đấu để trở thành một trong những trung tâm thương mại lớn nhất của cả nước.
Giao thông
Khu cảng biển Hải Phòng
Với vị trí là đầu mối giao thông quan trọng, là cửa ngõ ra
biển của toàn miền Bắc. Hải Phòng hội đủ tất cả các loại hình giao thông là đường
bộ, đường sắt, đường thủy, đường không và hệ thống cảng biển.
Hệ thống cảng biển
Hải Phòng có vị trí chiến lược, là cửa ngõ ra biển kết nối với
thế giới của cả miền Bắc. Do vậy hệ thống cảng biển của thành phố được chú trọng
đầu tư mở rộng từ rất sớm. Vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Hải
Phòng đã được người Pháp xây dựng như một trung tâm thương mại, tài chính và đặc
biệt nhất là cảng biển có tiếng tăm của Thái Bình Dương. Đầu thế kỷ XX, cảng Hải
Phòng đã có mối quan hệ gắn bó với nhiều cảng lớn ở Đông Nam Á, châu Á, châu Đại
Dương, Bắc Mỹ, ven Ấn Độ Dương, Địa Trung Hải, Đại Tây Dương, biển Bắc
Âu...
Cảng Hải Phòng là một cụm cảng biển tổng hợp cấp quốc gia,
cùng với Cảng Sài Gòn là 1 trong 2 hệ thống cảng biển lớn nhất Việt Nam, hiện
đang được Chính Phủ nâng cấp. Cảng Hải Phòng nằm trên tuyến đường giao thông
trên biển, kết nối Singapore với Hồng Kông và các cảng của Đông Á và Đông Bắc
Á.
Ngoài cảng biển, ở Hải Phòng còn có hơn 20 bến cảng khác với
các chức năng khác nhau, như vận tải chất hóa lỏng (xăng, dầu, khí đốt), bến cảng
đóng tàu, bến cho tàu vận tải đường sông nhỏ có trọng tải 1-2 tấn ("tàu
chuột") như cảng sông Vật Cách, cảng sông Sở Dầu.
Đường sắt
Hải Phòng có một tuyến đường sắt là tuyến Hà Nội - Hải
Phòng, do Pháp xây dựng từ năm 1901 đến ngày 16.6.1902 thì hoàn thành và đưa
vào sử dụng. Hiện được sử dụng để vận chuyển hành khách và hàng hóa, tuyến đường
sắt này đang có kế hoạch được nâng cấp và điện khí hóa tuyến đường sắt này dài
102 km, gần như song song với quốc lộ 5A, đi qua địa phận các tỉnh thành: Hải
Phòng, Hải Dương, Hưng Yên,Hà Nội.[23] Ga Hải Phòng là ga hành khách cuối cùng
trên tuyến đường sắt Hà Nội- Hải Phòng. Cùng với ga Huế và ga Nha Trang, ga Hải
Phòng nằm trong số ít những ga đường sắt vẫn còn giữ được nguyên vẹn nét kiến
trúc thời Pháp thuộc.[24]
Đường hàng không
Ở Hải Phòng hiện chỉ có 1 sân bay phục vụ dân sự, Sân bay quốc
tế Cát Bi là sân bay đầu tiên của miền Bắc xây dựng từ thời Pháp thuộc. Sân bay
này ban đầu xây dựng phục vụ mục đích quân sự. Hiện nay Vietnam Airlines và
Jetstar Pacific Airlines đang khai thác đường bay Hải Phòng - Thành phố Hồ Chí
Minh với 42 chuyến một tuần phục vụ vận tải hành khách. Vietnam Airlines mới
đây đưa vào hoạt động đường bay Hải Phòng - Đà Nẵng với 7 chuyến một tuần (trước
đây đã từng khai thác đường bay Hải Phòng - Macao (bay thuê chuyến) và Hải
Phòng - Paris (thời chiến tranh)).
Thành phố đang thực hiện nâng cấp sân bay Cát Bi theo tiêu
chuẩn sân bay dân dụng cấp 4E, giai đoạn 1 đến năm 2015, bảo đảm tiếp nhận được
máy bay B747 hạn chế tải trọng, B777-300, B777-200, A321. Xây dựng mới đường
băng số 2, với kích thước dài 3050m, rộng 60m. Sân đỗ máy bay được mở rộng
thành 8 vị trí đỗ. Cải tạo đường băng số 1(cũ) thành đường lăn dài 3.050m, rộng
44m. Tổng vốn đầu tư giai đoạn 1 là 5 nghìn tỷ đồng.
Thành phố có dự án xây dựng thêm một cảng hàng không quốc tế
Hải Phòng dự kiến đặt tại huyện Tiên Lãng. Đây là Dự án có khả năng sẽ là sân
bay lớn nhất tại miền Bắc với quy mô khoảng 6000 ha với tổng vốn đầu tư dự tính
hiện thời qua 3 giai đoạn đến 2030 là hơn 8 tỉ USD.
Đường bộ
Cầu Bính
Các tuyến đường huyết mạch nối Hải Phòng với các tỉnh thành
khác như: Quốc lộ 5, quốc lộ 10, quốc lộ 37, và các tuyến đường cao tốc như Đường
cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, đường cao tốc ven biển Quảng Ninh - Hải Phòng -
Ninh Bình.
Là nơi toàn bộ các nhánh hạ lưu của sông Thái Bình đổ ra biển
nên Hải Phòng có mạng lưới sông ngòi dày đặc. Chính vì điều đó, việc xây dựng cầu
đường trở nên rất quan trọng đối với thành phố này.
Một số công trình cầu tiêu biểu như: cầu Bính bắc qua sông Cấm
nối giữa quận Hồng Bàng và huyện Thủy Nguyên, được cho là một trong những cây cầu
đẹp nhất Đông Nam Á; cầu Lạc Long bắc qua sông Tam Bạc, thuộc quận Hồng Bàng,
và được xem đây là cây cầu có đường dẫn đẹp nhất thành phố; và cầu Quay còn gọi
là cầu Xe Lửa, bắc qua sông Tam Bạc, "cây cầu lịch sử" được xây dựng
vào thời thời Pháp thuộc.
Giao thông đô thị
Thành phố Hải phòng có khoảng 600 tuyến đường phố, nằm trong
7 quận nội thành. Đường dài nhất là đường Phạm Văn Đồng, dài 14.5 km. Ngắn nhất
là phố Đội Cấn, nối từ phố Lê Lợi đến phố Lương Văn Can thuộc quận Ngô Quyền,
chỉ dài hơn 70 mét.
Năm 2011, Thủ tướng đã phê duyệt kết quả đàm phán dự án
"Phát triển giao thông đô thị thành phố Hải Phòng" với tổng mức đầu
tư 276,611 triệu USD. Dự án này được thực hiện trong 5 năm, từ năm 2011 và dự
kiến hoàn thành vào năm 2016. Dự án bao gồm xây dựng tuyến đường trục đô thị Hải
Phòng dài 20 km từ xã Lê Lợi (An Dương) đến quận Hải An và các cầu trên tuyến gồm
xây mới cầu Niệm 2, cầu Đồng Khê vượt qua sông Lạch Tray và đường Trường Chinh,
hầm chui cầu Rào, cải tạo cầu Niệm hiện tại. Cũng trong dự án này, thành phố sẽ
thí điểm xây dựng tuyến xe buýt công cộng từ trung tâm đi Tiên Lãng, Vĩnh Bảo.
Đồng thời, vận hành nâng cao thể chế năng lực quản lý giao thông vận tải, lập
và thực hiện quy hoạch về giao thông đô thị, vận tải công cộng…
Hầu hết các quận huyện của Hải Phòng đều có các bến xe vận
chuyển hành khách và hàng hóa.
Biển xe máy 4 số theo thứ tự từ F đến S. Biển xe máy 5 số
phân theo quận huyện có kí hiệu 15A1 đến 15N1. Trong khi đó biển ô tô 4 số gồm
các đầu số 16K, 16H, 16L, 16M, 16N, 16R, 16LD,...và biển ô tô 5 số gồm các loại
15A, 15B, 15C, 15D, 15R, 15LD,...
Văn hóa
Văn học
Nhắc đến một Hải Phòng trong văn học là người ta nghĩ ngay đến
tên tuổi nhà văn Nguyên Hồng và ngược lại nhắc đến sự ngiệp sáng tác của Nguyên
Hồng thì không thể bỏ qua những tác phẩm viết về con người cũng như mảnh đất đã
góp phần nuôi dưỡng tài năng văn chương của ông. Nguyên Hồng không sinh ra tại
Hải Phòng (quê gốc của ông ở Nam Định) nhưng những năm tháng đáng nhớ nhất
trong cuộc đời ông gắn liền với từng góc phố, bến tàu và những con người lam lũ
cùng khổ nơi đất Cảng. Đó là cảm hứng để có một thiên tiểu thuyết Bỉ Vỏ ra đời.
Rất nhiều người Hà Nội và trên cả đất nước đã từng biết và
xúc động khi nghe tuyệt phẩm "Em ơi Hà Nội phố" của nhạc sĩ Phú
Quang. Nhưng ít người biết rằng, lời ca trong "Em ơi Hà Nội phố" chỉ
là một đoạn trong trường ca cùng tên của nhà thơ Phan Vũ, một trường ca cho đến
tận bây giờ vẫn được cho là hay nhất về Hà Nội. Phan Vũ, cũng giống như Đoàn
Chuẩn là những người con của Hải Phòng, đã cảm nhận , đã yêu và viết cho Hà Nội
những tuyệt phẩm rất giá trị mà ngay cả người Thủ Đô cũng chưa chắc đã so được...
Nghệ thuật
Hải Phòng là nơi đã sản sinh và nuôi dưỡng nhiều tài năng
nghệ thuật lớn của đất nước.
Mỹ thuật
Hải Phòng không phải là trung tâm nghệ thuật lớn như Hà Nội,
Huế, TP Hồ Chí Minh. Các hoạ sỹ, nhà điêu khắc của Hải Phòng hoạt động nghệ thuật
trong một môi trường ít nhiều buồn tẻ và khó khăn. Nhiều hoạ sỹ đã chọn cho
riêng mình một môi trường nghệ thuật khác và đã không còn sinh sống ở Hải Phòng
nữa. Tuy nhiên dù còn ở Hải Phòng hay không, tất cả họ đều có một phong cách
nghệ thuật mạnh mẽ đậm chất miền biển. Các tên tuổi lớn về hội họa được sinh ra
tại Hải Phòng là Mai Trung Thứ, Trần Văn Cẩn. Kế theo là các nghệ sỹ khác như
Thọ Vân, Lê Viết Sử, Nguyễn Mạnh Cường, Nguyễn Hà, Đặng Hướng, Khắc Nghi, Quốc
Thái, Phạm Ngọc Lâm, Sơn Trúc, Quang Ngọc, Đặng Tiến, Quang Huân, Đinh Quân, Việt
Anh... Lớp các họa sĩ và nhà điêu khắc trẻ thế hệ 7x phải kể đến: Vũ Thăng,
Nguyễn Ngọc Dân, Vũ Nghị, Nguyễn Viết Thắng, Mai Duy Minh...
Sân khấu, Điện ảnh
Nền văn hoá sân khấu của Hải Phòng ngày càng được nâng cao.
Hiện có rất nhiều nhóm kịch nói đang hoạt động, đem lại hiệu quả rất cao. Với
người dân Hải Phòng và cả nước, có lẽ thân thuộc nhất là nghệ sĩ hài Quang Thắng
hay đạo diễn Văn Lượng với chương trình truyền hình "Ơi Hải Phòng"
phát sóng hàng tuần trên VTV4. Và các bộ phim hấp dẫn, gây tiếng vang lớn lấy bố
cảnh, cuộc sống người Hải Phòng lên những thước phim: " Nước mắt của biển",
"Con mắt bão", "Sóng ở đáy sông"
Âm nhạc
Nền văn hóa cổ của Hải Phòng, còn lưu đọng đến bây giờ những
điệu hát dân ca, những tích chèo, múa rối... như hát trù, hát đúm ở Thủy
Nguyên; hát chèo, nhạc múa rối ở Tiên Lãng, Vĩnh Bảo; các điệu hò kéo thuyền
vùng ven biển... Những làn điệu ấy gắn liền với nền văn minh lúa nước, tạo
thành bản sắc của cư dân vùng đất nơi đầu sóng ngọn gió.
Nếu Bình Định được gọi là đất thơ, nơi sản sinh và nuôi dưỡng
tài năng của những nhà thơ lớn như Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu thì Hải
Phòng là mảnh đất đã sản sinh, nuôi dưỡng những tên tuổi của nền âm nhạc hiện đại
Việt Nam như nhạc sĩ Văn Cao, Hoàng Quý, Đoàn Chuẩn, Đỗ Nhuận, Trần Chung, Ngô
Thụy Miên rồi Duy Thái sau này. Hải Phòng cùng với Hà Nội được coi là 2 cội nguồn
hình thành nên nền âm nhạc hiện đại của Việt Nam. Từ những thập niên 30, 40 của
thế kỷ 20, các nhạc sĩ tiên phong của Tân nhạc Việt Nam tại Hải Phòng và Hà Nội
thường xuyên có sự giao lưu, trao đổi với nhau trong các sáng tác cũng như xuất
bản (in ấn) tác phẩm. Tại Hải Phòng khi đó quy tụ những nhạc sĩ hàng đầu của nền
tân nhạc như các nhạc sĩ lập nên nhóm Đồng Vọng: Lê Thương, Hoàng Quý, Hoàng
Phú, Canh Thân, Văn Cao... - nhóm nhạc đã góp phần làm nên nền tân nhạc Việt
Nam, rồi nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, Đỗ Nhuận, nhà thơ-nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi, Vũ Trọng
Hối, Lương Vĩnh...
Sau khi Hải Phòng được giải phóng ngày 13-5-1955 và nhất là
trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, hình ảnh thành phố cảng hiên ngang bất khuất
trong mưa bom bão đạn, người dân đất Cảng vừa chiến đấu vừa sản xuất để bảo vệ
và xây dựng đất nước đã tạo cảm hứng cho các nhạc sĩ sáng tác nên hàng loạt các
ca khúc mang âm điệu hào hùng đi vào lòng người như "Thành phố Hoa phượng
đỏ" (Hải Như, Lương Vĩnh), "Bến cảng quê hương tôi" (Hồ Bắc),
"Chiều Cát Bà" (Văn Lương), "Thành phố của em" (Văn Dung),
"Chiều trên bến cảng" (Nguyễn Đức Toàn)... Nhiều ca khúc sau này trở
thành những nhạc phẩm được nhiều người yêu thích, những bài ca đi cùng năm
tháng. Đặc biệt, ca khúc "Thành phố Hoa phượng đỏ" (thơ: Hải Như, nhạc:
Lương Vĩnh) được chọn làm nhạc hiệu Đài Phát thanh - Truyền hình Hải Phòng và
được coi như bài hát truyền thống của người dân thành phố Cảng dù đang sống ở
trong nước hay ngoài nước.
Lễ hội
Cũng như mọi địa phương trên cả nước, Hải Phòng cũng là nơi
có các lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam.
• Liên hoan
Du lịch "Đồ Sơn biển gọi" : diễn ra vào ngày 30-4 đến 2-5 hàng năm với
nhiều hoạt động sôi nổi, hấp dẫn nhằm quảng bá về du lịch Hải Phòng.
• Hội chọi
trâu Đồ sơn: Ngày Hội chọi trâu là ngày vui nhất trong những ngày hội làng ở Đồ
Sơn. Bởi lẽ, ngày Hội vừa mang tinh thần thượng võ của dân tộc, vừa là biểu tượng
bao đời của nền nông nghiệp Việt Nam, con trâu gắn liền với xứ sở trồng lúa nước.
• Hội vật cầu
làng Kim (Kim Sơn, Kiến Thuỵ) sáng mồng 6 tháng Giêng
• Lễ hội đua
thuyền rồng trên biển Đồ Sơn
• Lễ hội làng
cá Cát Bà
• Lễ hội núi
Voi ( huyện An Lão )
• Lễ hội Hoa
Phượng đỏ: đây là hoạt động du lịch mới của thành phố, bắt đầu từ năm 2012.
Ẩm thực Hải Phòng bình dị và dân dã, không cầu kỳ nhưng đậm
đà khó quên. Nơi đây nổi tiếng với các món hải sản. Các nhà hàng hải sản ở khu
vực Đồ Sơn nổi tiếng với tôm cua cá mực rất tươi và giá phải chăng. Phong cách
chế biến hải sản ở Hải Phòng theo phong cách dân dã, nhấn mạnh thực chất và vị
tươi ngon của nguyên liệu nhiều hơn sự cầu kỳ trong gia vị và cách chế biến.
Các món ăn như bánh đa cua, bún cá, bánh mỳ cay, cơm cháy hải
sản, ốc cay, nem cua bể (nem vuông), giờ đây đã quá quen thuộc và nổi tiếng. Những
món ăn này có thể được tìm thấy trên đường phố của những nơi khác như TP.Hồ Chí
Minh, Hà Nội,... nhưng được thưởng thức chúng trên Thành phố Hoa phượng đỏ vẫn
là lý tưởng nhất vì sự lựa chọn nguyên liệu tươi ngon cùng với những bí quyết ẩm
thực riêng của người đầu bếp. Ẩm thực Hải Phòng đã từng được quảng bá sang Châu
Âu tại lễ hội biển Brest 2008 (Cộng hòa Pháp) và đã gây được tiếng vang lớn.
Ngoài ra, Hải Phòng còn nổi tiếng với nhiều món ăn khác như
lẩu bề bề, nộm giá, thịt san biển, sủi dìn, bánh bèo,... Một số món ăn không thể
thưởng thức ở những nơi khác mà chỉ có tại Hải Phòng.
Biểu tượng
Từ lâu, hoa phượng đỏ (hay phượng vĩ) đã trở thành biểu tượng
của thành phố cảng Hải Phòng. Đối với mỗi người Hải Phòng, dù già hay trẻ, dù
đang sống tại thành phố hay sống xa quê hương thì vẫn luôn giữ trong ký ức một
màu đỏ rực khó phai của hoa phượng vĩ hai bên bờ hồ Tam Bạc mỗi độ hè về. Cây
phượng vĩ được người Pháp du nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỷ 19, có đặc điểm
sinh thái là bắt đầu nở hoa vào những ngày đầu mùa hè, mùa hoa phượng kéo dài
trong khoảng 1 tháng (từ đầu tháng 5 đến hết tháng 6) đúng vào thời điểm bắt đầu
mùa du lịch biển của Hải Phòng và ngày giải phóng thành phố (13 tháng 5). Dù
ngày nay phượng vĩ được trồng khắp mọi nơi tại Việt Nam nhưng nhắc đến Hải
Phòng người ta vẫn thường gọi bằng cái tên đầy thi vị là Thành phố Hoa phượng đỏ.
Nguồn gốc của tên gọi đó có thể bắt nguồn từ một bài hát rất nổi tiếng về Hải
Phòng. Bài hát Thành phố Hoa phượng đỏ được nhạc sĩ Lương Vĩnh phổ nhạc từ bài
thơ cùng tên của nhà thơ Hải Như viết năm 1970. Vượt qua sự thử thách của thời
gian, bài hát có sức lay động đặc biệt đối với mỗi người Hải Phòng, nhất là với
những ai đang sống xa thành phố quê hương. Bài hát đã được chọn làm nhạc hiệu của
Đài Phát thanh Truyền hình Hải Phòng và được xem như bài hát truyền thống của
những người con đất Cảng.
Đường Phạm Văn Đồng của Hải Phòng từ cầu Rào - Đồ Sơn chính
thức được công nhận là con đường trồng nhiều cây phượng nhất của Việt Nam. Trên
chiều dài hơn 20 km này được trồng 3.068 cây phượng.
Ngoài biểu tượng về hoa phượng, Nhà hát lớn Hải Phòng nằm
ngay giữa quảng trường trung tâm thành phố bao năm qua cũng được coi như biểu
tượng kiến trúc đặc trưng của Hải Phòng. Nhà hát được xây dựng vào năm 1904,
hoàn thành năm 1912 theo thiết kế của kiến trúc sư người Pháp với nguyên vật liệu
mang từ Pháp sang. Cùng với Nhà hát lớn tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì
đây là số ít những nhà hát được người Pháp xây dựng tại Việt Nam thời kỳ thuộc
địa.
Xã hội
Giáo dục
Tham mưu trưởng Hải quân Mỹ thăm Đại Học Hàng Hải
Với lợi thế là một thành phố trực thuộc trung ương, Hải Phòng là một trung tâm giáo dục lớn của Việt Nam. Các trường của Hải Phòng đều có cơ sở vật chất rất tốt và toàn diện.
Hiện nay (2012), trên địa bàn thành phố có 5 trường Đại học
và học viện, 16 trường Cao đẳng, 26 trường Trung cấp chuyên nghiệp, 56 trường
Trung học phổ thông và hàng trăm trường học từ bậc học cơ sở tới ngành học mầm
non. Hải Phòng cũng là địa phương duy nhất có học sinh đạt giải Olymic quốc tế
trong 16 năm liên tiếp.
Tiêu biểu có:
• Trường Đại
học Hàng hải Việt Nam (Vietnam Maritime University) là trường đại học đầu ngành
của Việt Nam chuyên đào tạo các ngành liên quan đến hàng hải.
• Trường
Trung học phổ thông năng khiếu Trần Phú là trường Trung học phổ thông được xếp
hạng thứ 3 toàn quốc tính theo thành tích trong các kỳ thi học sinh giỏi Quốc
gia.
• Trường
Trung học phổ thông Ngô Quyền, Hải Phòng. Trường trước kia mang tên là trường
Bonnal, một ngôi trường danh tiếng khắp đất Bắc Kì, cũng là ngôi trường lâu đời
nhất Hải Phòng, thứ 2 miền Bắc, ngôi trường mang đậm nét kiến trúc thời Pháp.
• Trường
Trung học phổ thông Thái Phiên, Hải Phòng (Số 258 phố Đà Nẵng, phường Cầu Tre,
quận Ngô Quyền). Lớp chọn của trường Trung học phổ thông Thái Phiên ngày trước
chính là tiền thân của trường chuyên Trần Phú hiện nay.Đây là trường Trung học
phổ thông không chuyên top đầu thành phố nằm trong top 100 trường Trung học phổ
thông. Năm 2010 xếp thứ 66/100. Năm 2011 xếp thứ 51/100.Năm 2012 xếp thứ 76/100
Tôn giáo, tín ngưỡng
Hải Phòng có khá nhiều đền thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo, Lê
Hoàng và Ngô Vương Quyền cũng như đền thờ chúa Năm Phương và hệ thống chùa chiền
phong phú.
Hạ tầng công nghệ thông tin
Thành phố những năm gần đây quan tâm khá nhiều đến công nghệ
thông tin và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm việc trên lĩnh vực này(gia
công, thiết kế, tư vấn, quản trị, triển khai phần mềm, hệ thống thông tin,
...). Bằng chứng là đã có hàng loạt công ty gia công phần mềm được thành lập và
phát triển: An Biên soft, P.I.T Việt, Vigoor, Hapecom, ... Điều này giúp nhiều
sinh viên ngành công nghệ thông tin của thành phố và các tỉnh lân cận (Quảng
Ninh, Thái Bình, Hải Dương, Nam Định,...) tránh khỏi tình trạng thiếu việc
chung hiện nay. Nhưng hướng đi chung của các công ty ở Hải Phòng cũng không
khác Hà Nội, Hồ Chí Minh và Đà Nẵng - tập trung mạnh vào gia công phần mềm từ
những dự án thuê ngoài của các nước phát triển. Hải Phòng cũng là 1 trong 4 trọng
điểm và việc làm công nghệ thông tin của Việt Nam (3 nơi khác là TP. Hồ Chí
Minh, Hà Nội, Đà Nẵng). Mục tiêu của thành phố là đến năm 2020, tỉ trọng của
ngành công nghệ thông tin (phần mềm và phần cứng) chiếm khoảng 20%-30% GDP của
thành phố, hướng Hải Phòng thành một trong những thành phố hàng đầu của Đông
Nam Á về phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin.
Hầu hết mọi hoạt động của chính quyền cũng như cơ quan đều
được số hóa, giao diện chủ yếu qua internet và công khai trên các cổng thông
tin điện tử.
Xem đá bóng trên sân Lạch Tray, Hải Phòng
Hải Phòng là một trung tâm mạnh của thể thao Việt Nam. Hải
Phòng có thế mạnh trong các môn thể thao như bắn cung, bóng đá, bơi lội, nhảy
cao, thể dục dụng cụ, cử tạ và khiêu vũ thể thao. Nhiều vận động viên Hải Phòng
đã đánh dấu những cột mốc quan trọng của thể thao Việt Nam trong hành trình hội
nhập vào thể thao khu vực cũng như quốc tế.
Thể dục dụng cụ Hải Phòng từng có Nguyễn Thị Nga, người
giành HCV SEA Games đầu tiên năm 1997 cho thể dục dụng cụ Việt Nam. Hơn một thập
kỷ sau, đến lượt Phan Thị Hà Thanh đưa thể dục dụng cụ Việt Nam xuất hiện trên
bản đồ của thể dục dụng cụ thế giới với tấm HCĐ giải vô địch thể dục dụng cụ
châu Á 2009, 2 HCB World Cup thể dục dụng cụ 2010 và tấm HCĐ tại giải vô địch
thể dục dụng cụ thế giới năm 2011. Đây là lần đầu tiên một vận động viên thể dục
dụng cụ Việt Nam giành được huy chương tại giải vô địch thể dục dụng cụ thế giới.
Trong điền kinh, Bùi Thị Nhung là vận động viên đầu tiên đoạt được HCV cấp châu
lục về cho điền kinh Việt Nam với tấm HCV ở nội dung nhảy cao nữ tại giải vô địch
châu Á năm 2003. Trong bơi lội, Nguyễn Hữu Việt là một trong những cái tên hàng
đầu của thể thao Việt Nam trên đường đua xanh với 3 tấm HCV SEA Games liên tiếp.
Riêng bóng đá vẫn là môn thể thao được người Hải Phòng yêu
thích nhất. Bóng đá được người Pháp du nhập vào Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ
20, trong khi Hải Phòng là một vài nơi ở Việt Nam lúc đó có phong trào bóng đá
phát triển mạnh nhất với nhiều đội bóng (gồm cả người Việt và người Pháp) được
thành lập. Bóng đá Hải Phòng đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, nhiều đội
bóng lần lượt bị giải thể để hiện nay chỉ còn lại một đội bóng duy nhất là Câu
lạc bộ bóng đá Vicem Hải Phòng đang thi đấu tại Giải bóng đá chuyên nghiệp quốc
gia V-League. Tuy vậy sân vận động Lạch Tray vẫn thuộc số ít sân bóng tại Việt
Nam còn duy trì được số lượng khán giả cao trong vài năm qua (trung bình trên một
vạn khán giả mỗi trận đấu).
Y tế
Các bệnh viện lớn
Tại Hải Phòng, hiện có 15 bệnh viện và viện y phục vụ nhu cầu
khám chữa bệnh cho nhân dân thành phố và các tỉnh lân cận như Quảng Ninh, Thái
Bình,...
1. Bệnh viện đa
khoa Việt Tiệp Hải Phòng (phố Nhà thương, quận Lê Chân).Đây là bệnh viện lớn nhất
Hải phòng, là nơi áp dụng những khoa học kĩ thuật hàng đầu Việt Nam.
2. Bệnh viện Phụ
sản Hải Phòng (phố Trần Quang Khải, quận Hồng bàng)
3. Bệnh viện
nhi Hải Phòng (phố Việt Đức, Lãm Hà, quận Kiến An)
4. Bệnh viện đa
khoa Kiến An (phố Trần Tất Văn,Quận Kiến An)
5. Bệnh viện
lao Hải Phòng (phố Trần Tất Văn,Quận Kiến An)
6. Bệnh viện chỉnh
hình và phục hồi chức năng Hải Phòng (tên khác - bệnh viện Nauy - phố Trần Tất
Văn,Quận Kiến An)
7. Bệnh viện Y
học cổ truyền Hải Phòng (phố Nguyễn Đức Cảnh, quận Lê Chân)
8. Bệnh viện
Tâm thần Hải Phòng (phường Đông Khê, quận Ngô Quyền)
9. Viện Quân Y
7 (phố Bến Bính, quận Hồng Bàng)
10. Viện Y học
biển Việt Nam (Đường Nguyễn Văn Linh, quận Lê Chân)
11. Viện Y học Hải
Quân (Đường Phạm Văn Đồng, quận Dương Kinh)
12. Viện Mắt Hải
Phòng
13. Bệnh viện Phụ
sản Quốc Tế Hải Phòng (phố Nguyễn Văn Linh, quận Lê Chân)
14. Bệnh viện đa
khoa quốc tế Hải Phòng ( phố Nhà Thương ,phường Cát Dài, quận Lê Chân )
Du lịch
Khu du lịch Hòn Dáu resort
Hải Phòng là một trung tâm du lịch lớn của Việt Nam. Là một thành phố lớn và gần biển đảo, Hải Phòng là một mắt xích quan trọng trong tam giác kinh tế và du lịch Hải Phòng - Hà Nội - Quảng Ninh. Hải Phòng sở hữu nhiều điểm tham quan, khu du lịch chất lượng cao, đạt tầm quốc tế như khu nghỉ dưỡng (resort) 4 sao và sòng bạc (casino), sân golf Đồ Sơn, khu nghỉ dưỡng - sinh thái và bể bơi lọc nước biển tạo sóng lớn nhất Châu Á tại Hòn Dáu,[31] 2 khu nghỉ dưỡng Sông Giá và Camela ở nội đô, khu du lịch suối nước nóng ở Tiên Lãng, 2 khu nghỉ dưỡng Catba Island và Catba Resort and Spa ở quần đảo Cát Bà, đảo nhân tạo Hoa Phượng (sẽ chính thức đi vào hoạt động vào năm 2013),... Khách du lịch nước ngoài, đặc biệt là khách du lịch Châu Âu luôn có hứng thú với quần đảo Cát Bà, một hòn đảo xinh đẹp với hệ sinh thái rừng, biển phong phú cùng với những khách sạn, nhà hàng chất lượng cao.
Năm 2010, Hải Phòng đón 4,2 triệu lượt khách, trong đó khách
quốc tế chiếm 596.400 lượt. Trong 7 tháng đầu năm 2011, thành phố đón 2,516
triệu lượt khách, khách quốc tế chiếm 339,3 nghìn lượt. Tổng doanh thu của hoạt
động khách sạn, nhà hàng, dịch vụ đạt hơn 5,6 nghìn tỷ đồng, tăng 29,2% so với
cùng kỳ, trong đó doanh thu lưu trú và dịch vụ lữ hành đạt 908,4 tỷ đồng, tăng
15% và đạt 60,6% kế hoạch.
Ngày nay, do nhận được sự quan tâm đúng đắn của thành phố và
các nhà đầu tư nên du lịch Hải Phòng ngày càng thêm khởi sắc. Sản phẩm tour du
lịch của Hải Phòng ngày càng đa dạng và lôi cuốn, với hệ thống di tích đền miếu
và giá trị văn hoá truyền thống lễ hội, tài nguyên di sản văn hoá... Điều đó đã
góp phần làm phong phú các tour du lịch trên địa bàn. Khu du lịch Đồ Sơn gần
đây đã khai trương bể bơi nước mặn tạo sóng lớn nhất Châu Á ở Hon Dau Resort, xây
dựng khách sạn 5 sao hình cánh buồm Pullman tại đảo nhân tạo Hoa Phượng[34] -
biểu tượng tương lai của Hải Phòng.[cần dẫn nguồn] Cát Bà hiện nay đang làm tốt
việc mở rộng tour, tuyến bằng thuyền trên vịnh với tàu, xuồng cao tốc và bơi
thuyền kayak, ngoài ra đang nghiên cứu và phát triển thêm chương trình du lịch
lặn biển tại nơi có san hô...
Mặc dù đạt được nhiều kết quả khả quan và được đánh giá là một
điểm đến hấp dẫn nhưng theo đánh giá của những của những chuyên gia lữ hành, du
lịch Hải Phòng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế vốn có. Hải Phòng vẫn
chưa khai thác hết những thế mạnh về địa lý, tự nhiên và con người. Du lịch
thành phố đã và đang tiếp tục có những bước chuyển mình mạnh mẽ để xứng đáng với
vị thế trung tâm du lịch lớn của Việt Nam.
Hải Phòng được chọn là trung tâm của Năm Du lịch Quốc gia
2013 đồng bằng Sông Hồng. Lễ khai mạc được dự kiến tổ chức ngày 12 tháng 5 năm
2013 tại Quảng trường Nhà hát lớn thành phố Hải Phòng.
Danh lam thắng cảnh
• Khu du lịch
biển Đồ Sơn : Đồ Sơn là khu nghỉ mát nổi tiếng nằm cách thành phố Hà Nội 120 km
và cách trung tâm thành phố Hải Phòng 20 km. Đây là một bán đảo nhỏ được bao
quanh bởi núi, vươn dài ra biển có những bãi cát mịn trên những bờ biển rợp
bóng phi lao. Trong lịch sử, Đồ Sơn là nơi nghỉ ngơi của vua chúa, quan lại đô
hộ; nổi tiếng là "ngôi nhà bát giác kiên cố" của Bảo Đại - ông vua cuối
cùng của triều đại phong kiến Việt Nam. Ngày nay, Đồ Sơn là một điểm đến lý tưởng
của khách du lịch trong ngày hè, với chất lượng dịch vụ tốt và giá cả tương đối
mềm. Đồ Sơn còn nổi tiếng với casino duy nhất ở Việt Nam, cùng với hệ thống sân
gofl đạt chuẩn quốc tế.
• Quần đảo
Cát Bà : Cát Bà là đảo lớn nhất trong hệ thống quần đảo gồm 366 đảo nhỏ, cách
thành phố Hải Phòng 70 km. Cát Bà nổi tiếng với những bãi biển trong xanh trải
dài trên những bãi cát trắng mịn màng và hệ thống sinh thái rừng ngập mặn, nhiệt
đới xanh quanh năm. Đến Cát Bà du khách có thể đến thăm vịnh Lan Hạ, động Trung
Trang, động Trung Sơn, động Phù Long, vườn quốc gia Cát Bà hay tham gia tắm biển,
chèo thuyền kayak, lặn biển và thưởng thức đặc sản biển nổi tiếng. Đặc biệt
trong khu rừng nguyên sinh Cát Bà có loài Voọc đầu vàng, loài thú cực quý hiếm
trên thế giới chỉ có tại Cát Bà.
Quần đảo Cát Bà đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh
quyển thế giới tại Paris vào ngày 29 tháng 10 năm 2004 và đang đề nghị được
công nhận là di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu chí đa dạng sinh học.
• Hòn Dáu :
Là một đảo nhỏ nằm cách Đồ Sơn 1 km về phía Đông Nam. Nét hấp dẫn của Hòn Dáu
là nét hoang sơ tĩnh mịch cách biệt hẳn với Đồ Sơn ồn ào với những gốc si cổ thụ
khổng lồ. Hệ thực vật nguyên vẹn cả 3 tầng cùng với những rễ cây lớn tua tủa
đam sâu vào lòng đất càng làm cho đảo thêm cổ kính. Nét hoang sơ, tĩnh mịch như
càng được tôn thêm với Đền Thờ Nam Hải Vương cùng với ngọn hải đăng hơn một
trăm năm tuổi. Đối với người dân nơi đây, đảo Hòn Dáu là một nơi linh thiêng đến
mức họ tin rằng không một ai có thể lấy đi ở đây bất cứ thứ gì dù đó chỉ là một
hòn đá, hay một chiếc lá cây. Chính vì thế, trải qua hàng trăm năm, đảo Dáu vẫn
giữ được nét hoang sơ kỳ vĩ.
Khu nghỉ dưỡng
• Khu du lịch
suối nước nóng Tiên Lãng: Khu du lịch suối nước nóng này được coi là độc nhất
vô nhị ở đồng bằng Bắc Bộ. Trong những năm gần đây lượng khách du lịch nội địa
và nước ngoài đến đây ngày càng tăng. Đây còn được coi là 1 trong 5 mỏ nước
khoáng nóng có giá trị nhất ở Việt Nam.[38]
• Hòn Dáu
Resort: Hon Dau Resort nằm tại khu 3 của khu du lịch biển Đồ Sơn, với hệ thống
khách sạn, nhà hàng, trung tâm mua sắm, bể bơi, khu công viên nước, khu vui
chơi, sân gofl, bãi tắm tự nhiên và nhân tạo cùng với không gian thiên nhiên rộng
mở, hồ nước và cây xanh. Hòn Dáu resort được xây dựng với mục đích xóa bỏ tính
mùa vụ trong du lịch và định kiến về nước biển Đồ Sơn không được trong. Hòn Dáu
Resort còn được đánh giá là "Đà Lạt thu nhỏ" trong lòng biển và là
khu nghỉ dưỡng đồng bộ nhất miền Bắc.
• Catba
Sunrises và Catba Island Resort & Spa: Đây là 2 khu nghỉ dưỡng cao cấp nằm
tại Cát Bà, cung cấp cho du khách những dịch vụ, tiện nghi cao cấp với tiêu chuẩn
châu Âu. Nơi đây rất thu hút du khách quốc tế đến nghỉ dưỡng.
Ngoài ra còn có một số resort khác đang trong quá trình xây
dựng như Sông Giá Resort, đảo nhân tạo Hoa Phượng (2013) và Cát Bà
Amatina(2012).
Khách sạn chuẩn quốc tế
Hiện, toàn thành phố có tất cả 108 cơ sở lưu trú được xếp hạng
từ 1 đến 5 sao
Một số khách sạn tiêu biểu cao cấp của Hải Phòng là Best
Western Pearl River đạt 5 sao, cùng với các khách sạn 4 sao khác làkhách sạn quốc
tế Sao Biển, khách sạn Nam Cường (cũ là Tray Hotel), Harbour View, Camela, Cát
Bà Sunrise, Cát Bà Island Resort & Spa, Hữu Nghị, Princess Hotel, Hoàng
Long Classic, Sunflower International Village,...
Một số resort cao cấp nổi tiếng ở Hải Phòng là: Doson
Resort, Hon Dau Resort, Camela Hotel & Resort, Cát Bà Sunrise, Cát Bà
Island Resort & Spa, Sông Giá resort, Monkey Island Resort, Flamingo Cát
Bà, Cat Ba Beach Resort,...
Tại Hải Phòng đang có nhiều dự án xây dựng những khách sạn mới
tiêu chuẩn quốc tế. Trong đó có 2 khách sạn theo tiêu chuẩn 5 sao quốc tế đang
được xây dựng: một tại đảo nhân tạo Hoa Phượng, Đồ Sơn và một ở vịnh tránh bão
thuộc đảo Cát Bà, nằm tại Cát Bà Island Resort & Spa. Ngành du lịch Hải
Phòng dự tính sẽ có thêm từ 5 tới 7 khách sạn chuẩn quốc tế tại nội thành và
trên các khu du lịch, nghỉ dưỡng Đồ Sơn, Cát Bà, và đảo nhân tạo Hoa Phượng để
nâng tầm du lịch của thành phố.
Hợp tác quốc tế
Ngoài việc kết nghĩa với thành phố Đà Nẵng, Hải Phòng có
quan hệ hợp tác hữu nghị với các thành phố của các quốc gia gồm:
• Incheon,
Hàn Quốc
• Seattle,
Hoa Kì
• Thiên Tân,
Trung Quốc
• Côn Minh,
Trung Quốc
• Nam Ninh,
Trung Quốc
• Longueuil, Canada
• Tỉnh Viêng
Chăn, Lào
• Bang
Mecklenburg-Vorpommern, Đức
• Sankt-Peterburg, Nga
• Vladivostok, Nga
• Livorno,
Italia
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét